bệnh án uốn ván
1. BỆNH ÁN UỐN VÁN Phần hành chánh: rất quan trọng, đặc biệt là địa chỉ và dân tộc. Vì một số nơi lạc hậu có phong tục sanh đẻ tại nhà nên cắt rốn bằng dụng cụ bẩn. Bệnh sử: mô tả từ triệu chứng đầu tiên là Mỏi hàm/đau hàm. Nhiều bạn mô tả rất tốt
Uốn ván - Căn nguyên, sinh lý bệnh, triệu chứng, dấu hiệu, chẩn đoán và tiên lượng của Cẩm nang MSD - Phiên bản dành cho chuyên gia y tế.
Slide bệnh án về uốn ván. Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (160.85 KB, 26 trang ) Bệnh án. Trình bày: Đỗ Trung Đức. Phạm Ngọc Dương. Nhóm 1 – tổ 5. Hành chính. •.
Tiêm phòng uốn ván cho bà bầu là một trong những mũi tiêm đề nghị trước lúc sinh để đảm bảo sức khỏe cho cả mẹ và bé, ngăn ngừa bệnh và biến chứng của bệnh.
1. Đặc điểm của bệnh: Bệnh uốn ván (tetanus) là một bệnh cấp tính do ngoại độc tố ( tetanus exotoxin) của vi khuẩn uốn ván ( Clostridium tetani) phát triển tại vết thương trong điều kiện yếm khí. Các triệu chứng của bệnh được biểu hiện là những cơn co cứng cơ kèm
modifikasi mobil gran max pick up warna hitam. Uốn ván là bệnh gì? Uốn ván là một bệnh nhiễm trùng cấp tính nặng nề, do ngoại độc tố của vi khuẩn uốn ván có tên Clostridium tetani gây nên. Ngoại độc tố này ảnh hưởng đến toàn bộ cơ thể, làm tổn thương não và hệ thần kinh trung ương dẫn đến cứng cơ, có thể gây tử vong. Ở Việt Nam, bệnh uốn ván phân bố rải rác ở các tỉnh thành trong cả nước và có ở mọi lứa tuổi. Bệnh có thể gặp bất kỳ thời gian nào trong năm, không mang tính chất mùa rõ rệt. Chương trình loại trừ uốn ván sơ sinh được triển khai từ năm 1992. Từ năm 2005, Việt Nam đã loại trừ uốn ván sơ sinh theo quy mô huyện với tỷ lệ mắc uốn ván sơ sinh dưới 1/1000 trẻ đẻ lệ tử vong của bệnh uốn ván cao hơn ở những người không tiêm chủng và người lớn trên 60 tuổi. Tác nhân gây bệnh là vi khuẩn uốn ván Clostridium tetani. Đây là trực khuẩn gram dương, có lông quanh thân, di động tương đối, sống trong môi trường yếm khí. Trực khuẩn thường tạo nha bào hình cầu tròn ở dạng tự do hoặc hình dùi trống. Vi khuẩn uốn ván chết ở 560C, nhưng nha bào uốn ván rất bền vững, còn có thể gây bệnh uốn ván sau 5 năm ở trong đất. Các dung dịch sát trùng như phenol, formalin có thể diệt nha bào sau 8-10 tiếng và đun sôi trong vòng 30 phút cũng giết chết được nha bào. Loại vi khuẩn này có mặt khắp nơi trên thế giới và chủ yếu được tìm thấy trong đất. Nhiễm trùng vết thương, thường là vết thương hở, vết thương nhiễm bẩn, sâu, nhiều dị vật là môi trường thuận lợi thường gặp vi khuẩn uốn ván. Bào tử xâm nhập vào vết thương trên da, sinh sôi nảy nở và tạo ra độc tố bám vào đuôi các sợi thần kinh. Chất độc sẽ lan dần vào tủy sống và não. Độc tố ngăn chặn những tín hiệu hóa học từ não và tủy sống đến cơ. Cơ sẽ bị co giật nặng, bệnh nhân có thể ngừng thở và tử vong nếu nhóm cơ hô hấp bị co cứng kéo dài. Uốn ván sơ sinh thường bắt nguồn từ nhiễm trùng do cắt dây rốn ở trẻ sơ sinh không đảm bảo nguyên tắc vô khuẩn. Bệnh uốn ván thường bắt đầu bằng triệu chứng co thắt cơ hàm nhẹ, sau đó ảnh hưởng đến các cơ khác trong vùng mặt và các vị trí khác nhau trong cơ thể như ngực, cổ, lưng, bụng và mông. Co các cơ thắt lưng tạo ra tư thế uốn cong lưng đặc trưng. Co thắt các cơ hô hấp ảnh hưởng đến việc hô hấp. Việc co cơ mạnh, đột ngột, kéo dài gây đau cơ, có thể rách cả cơ và gãy xương. Các triệu chứng khác bao gồm sốt, nhức đầu, bồn chồn, khó chịu, bí tiểu, nóng rát khi đi tiểu và đại tiện mất kiểm soát. Uốn ván toàn thân là thể bệnh phổ biến nhất. Triệu chứng uốn ván toàn thân là nhiều cơ bị căng cứng và xuất hiện những cơn co giật đau đớn trong vòng 7 ngày từ khi vi khuẩn xâm nhập. Các cơ bị ảnh hưởng hầu hết thường ở hàm, cổ, vai, lưng, bụng trên, tay và đùi. Cơ mặt bị co lại nên mặt bị nhăn. Một số người bị co giật cơ mạnh, đau đớn khắp toàn thân, thậm chí rách cơ và gãy xương. Bệnh có thể nhẹ khi cơ co cứng với vài cơn co giật, vừa nếu có cứng hàm và khó nuốt hoặc nặng nếu co giật dữ dội hoặc ngừng thở. Uốn ván cục bộ không phổ biến. Triệu chứng uốn ván cục bộ xuất hiện ở các cơ gần vết thương. Uốn ván cục bộ thông thường có tiên lượng tốt hơn uốn ván toàn thân, tỷ lệ tử vong chỉ khoảng 1%. Tuy nhiên uốn ván cục bộ cũng có thể là dấu hiệu báo trước của uốn ván toàn thân. Thông thường nha bào uốn ván xâm nhập vào cơ thể qua các vết thương sâu, bị nhiễm bẩn, qua các vết rách, vết bỏng, vết thương dập nát, vết thương nhẹ, hoặc do tiêm chích nhiễm bẩn. Ghi nhận được các trường hợp mắc bệnh uốn ván sau phẫu thuật, hay sau nạo thai trong những điều kiện không đảm bảo vệ sinh. Có trường hợp tổ chức của cơ thể bị hoại tử và/hoặc các dị vật xâm nhập vào cơ thể bị nhiễm bẩn tạo ra môi trường yếm khí cho nha bào uốn ván phát triển. Trẻ sơ sinh bị bệnh uốn ván sơ sinh là do quá trình cắt và chăm sóc rốn không đảm bảo vệ sinh. Nha bào uốn ván xâm nhập qua dây rốn vì cắt rốn bằng dụng cụ bẩn hoặc sau khi sinh, trẻ không được chăm sóc rốn sạch sẽ, gạc băng rốn không vô khuẩn nên đã bị nhiễm nha bào uốn ván. Bệnh uốn ván sơ sinh thường xảy ra ở trẻ bị đẻ rơi, đẻ tại nhà được chăm sóc theo phong tục tập quán lạc hậu, nhất là ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa. Bệnh uốn ván không lây truyền từ người sang người. Các yếu tố nguy cơ làm tăng khả năng mắc bệnh uốn ván Suy giảm hệ miễn dịch, không tiêm vắc xin uốn ván Không được thuốc tiêm phòng TIG kịp thời để chống lại bệnh uốn ván; Sự xuất hiện của vi khuẩn gây nhiễm bệnh khác; Mô bị tổn thương nhiều Tình trạng sưng tấy xung quanh vết thương. Những vết thương sau là điều kiện thuận lợi dễ mắc bệnh uốn ván Vết thương hở, bao gồm xăm mình, xỏ khuyên, vết tiêm Vết thương nhiễm bẩn, nhiều dị vật Vết thương do đạn bắn Gãy xương hở Bỏng Vết thương do phẫu thuật Vết cắn của động vật Các cách phòng ngừa bệnh uốn ván Tiêm vắc xin uốn ván là cách phòng bệnh tốt nhất. Tiêm vắc xin uốn ván để chủ động phòng uốn ván cho mẹ và UỐN VÁN SƠ SINH cho con. Phụ nữ có thai cần được tiêm tối thiểu 2 liều vắc xin uốn ván cách nhau tối thiểu 1 tháng và liều thứ 2 phải tiêm trước khi sinh 1 tháng. Những lần có thai sau cần tiêm nhắc lại 1 liều uốn ván trước khi sinh 1 tháng. Trẻ em dưới 1 tuổi sẽ được tiêm vắc xin phối hợp phòng bạch hầu, ho gà, uốn ván, viêm gan B và viêm phổi/màng não do vi khuẩn Hib. Dùng globulin miễn dịch uốn ván khi có các vết thương sâu, nhiễm bẩn, nhiều dị vật, có tác dụng ngăn ngừa nhiễm trùng. Đối với người có các vết thương sâu, nhiễm bẩn nhiều, chứa dị vật, dễ mắc bệnh uốn ván thì cần xử lý như sau Trường hợp người bị thương đã được tiêm vắc xin uốn ván đầy đủ Đối với vết thương nhẹ, không bị nhiễm bẩn và liều vắc xin uốn ván cuối cùng cách lúc đó > 10 năm thì phải tiêm nhắc lại 1 liều vắc xin uốn ván. Đối với vết thương nặng hoặc bị nhiễm bẩn và trong vòng 5 năm trước đó chưa được tiêm vắc xin uốn ván thì phải tiêm nhắc lại 1 liều vắc xin uốn ván ngay trong ngày bị thương. Trường hợp người bị thương chưa được gây miễn dịch cơ bản đầy đủ bằng vắc xin uốn ván Cần phải được tiêm 1 liều vắc xin uốn ván ngay càng sớm càng tốt sau lúc bị thương. Nếu vết thương nặng hoặc bị nhiễm bẩn thì cần tiêm thêm TIG. Tiêm chưa đủ liều Trường hợp người bị thương chưa được tiêm đủ 3 liều vắc xin uốn ván hoặc không rõ tiền sử tiêm vắc xin uốn ván và có vết thương sâu hoặc bị nhiễm bẩn thì cho tiêm TIG với liều thấp nhất là 250 IU hoặc SAT với liều 1500-5000 IU. Có thể tiêm vắc xin uốn ván, tiêm TIG hoặc SAT cùng một lúc, nhưng phải dùng bơm kim tiêm riêng và tiêm ở vị trí khác nhau. Trước khi tiêm SAT có nguồn gốc từ động vật thì phải thử phản ứng để phòng sốc phản vệ bằng test trong da. Trường hợp người bị thương đã có lần được tiêm huyết thanh động vật thì trước khi tiêm phải thử phản ứng nội bì có đối chứng âm tính bằng tiêm nước muối sinh lý. Đọc kết quả sau 15 - 20 phút. Nếu chỗ đối chứng âm tính và chỗ thử xuất hiện nốt phỏng với quầng đỏ rộng 3mm thì đó là kết quả thử dương tính và cần phải làm giải mẫn cảm. Ngoài ra cần tuyên truyền giáo dục sức khoẻ về những thông tin cần thiết liên quan đến bệnh uốn ván và uốn ván sơ sinh, sự nguy hiểm và cách sơ cứu của các vết thương do đâm chọc và những vết thương kín và sự cần thiết phải tiêm chủng chủ động hoặc tiêm chủng thụ động sau khi bị thương, sự cần thiết phải tuân thủ nguyên tắc vô khuẩn trong y tế. Chẩn đoán bệnh uốn ván chủ yếu dựa vào biểu hiện uốn ván với co cứng cơ. Hiện tại không có xét nghiệm máu để chẩn đoán uốn ván và không phân lập được vi khuẩn uốn ván ở người. Thử nghiệm với que đè lưỡi là một thử nghiệm lâm sàng được thực hiện bằng cách chạm vào thành họng sau với dụng cụ đè lưỡi và quan sát phản ứng. Một kết quả dương tính khi có sự co rút không tự nguyện của hàm cắn xuống "thìa". Một báo cáo ngắn trên Tạp chí Y học Nhiệt đới và Vệ sinh Hoa Kỳ cho biết, trong một nghiên cứu đối tượng bị ảnh hưởng, xét nghiệm này có độ đặc hiệu cao không có kết quả xét nghiệm dương tính giả và độ nhạy cao 94% người nhiễm bệnh cho kết quả dương tính kiểm tra. Trước khi điều trị uốn ván, cần làm sạch các vết thương để ngăn ngừa nhiễm trùng. Vết thương phải được cắt lọc các tổ chức bị nhiễm bẩn hoặc hoại tử và Phải duy trì tình trạng thoáng khí của vết thương. Miễn dịch uốn ván TIG được tiêm càng sớm càng tốt, ngay cả khi đã được tiêm phòng vắc xin uốn ván trước đây. Tiêm bắp TIG với liều từ 3000 - 6000 IU. Nếu không có TIG, có thể thay thế bằng tiêm tĩnh mạch một liều SAT. Tuy nhiên liệu pháp này chỉ có tác dụng ngắn và không thể thay thế các phương pháp khác. Các chuyên gia Y tế nói rằng cách này có thể an toàn đối với phụ nữ mang thai và đang cho con bú. Các bác sĩ có thể chỉ định các nhóm kháng sinh penicillin hoặc metronidazole từ 7-14 ngày với liều cao, những kháng sinh này ngăn chặn vi khuẩn độc hại gây co thắt cơ và cứng khớp. Bệnh nhân bị dị ứng với penicillin hoặc metronidazole có thể thay thế bằng tetracycline. Có thể sử dụng thuốc giảm đau, thuốc giãn cơ kết hợp với mở khí quản hoặc đặt ống nội khí quản, hỗ trợ hô hấp bằng thở máy để cấp cứu bệnh nhân. Đồng thời với điều trị, phải gây miễn dịch chủ động bằng vắc xin uốn ván cho bệnh nhân. Xem thêm Bà bầu không tiêm phòng uốn ván có sao không? 5 thời điểm bắt buộc phải tiêm vắc xin uốn ván cho trẻ Tiêm phòng uốn ván cho bà bầu như thế nào hiệu quả nhất? Lịch tiêm phòng uốn ván chi tiết cho bà bầu mang thai lần đầu, lần 2 trở lên
Bài viết được tư vấn chuyên môn bởi Thạc sĩ, Bác sĩ Nguyễn Hải Hà - Trưởng Đơn nguyên vắc-xin – Khoa Ngoại trú Nhi, Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Times City. Uốn ván sơ sinh là một bệnh nặng do hệ thần kinh trung ương của trẻ bị nhiễm độc bởi ngoại độc tố của trực khuẩn uốn ván Clostridium tetani. Vì vi khuẩn xâm nhập vào cơ thể trẻ qua rốn nên còn gọi là uốn ván rốn. Uốn ván rốn ở trẻ sơ sinh có thể gây ra nhiều biến chứng nghiêm trọng và có thể dẫn đến tử vong ở ước tính của Tổ chức Y tế Thế giới WHO trong những năm cuối của thể kỷ 20, mỗi năm có khoảng trẻ bị chết vì uốn ván sơ sinh ở các nước đang phát triển. Tỷ lệ chết/mắc của uốn ván sơ sinh rất cao, có thể tới trên 80%, nhất là ở trường hợp có thời gian ủ bệnh ngắn. 1. Triệu chứng bệnh uốn ván rốn ở trẻ sơ sinh Thời kỳ ủ bệnh Thời kỳ ủ bệnh kéo dài trung bình từ 3-7 ngày. Nếu thời kỳ ủ bệnh càng ngắn thì bệnh càng nặng. Trong thời gian này đứa trẻ không có dấu hiệu gì đặc biệt, vẫn ăn ngủ bình thường. Đôi khi trẻ quấy Thời kỳ khởi phát Giai đoạn này ngắn chỉ vài giờ hoặc kéo dài tới một ngày rồi chuyển sang giai đoạn toàn phát. Trong giai đoạn này triệu chứng đặc hiệu là cứng hàm, trẻ bỏ bú hoặc bú rất khó khăn, miệng chúm chím. Trẻ quấy khóc nhưng tiếng khóc Thời kỳ toàn phát Triệu chứng của thời kỳ toàn phát thường là cơn co giật và co cứng cơ. Cơn co giật xuất hiện đánh dấu giai đoạn toàn phát bắt đầu. Có thể cơn giật do tự nhiên hoặc do các kích kích từ bên ngoài như tiếng động, ánh sáng, nhiệt độ hoặc các thăm khám, động chạm vào trẻ. Co giật toàn thân làm mặt trẻ nhăn nhúm, miệng chúm lại, sùi bọt mép. Đầu ngửa, hai bàn tay nắm chặt, gấp khuỷu tay và áp sát vào người. Hai chân duỗi thẳng. Trẻ nằm ở tư thế ưỡn cong. Cơn co giật có thể kéo dài vài phút hoặc hàng giờ. Nếu cơn giật nhẹ trẻ có thể vẫn hồng hào. Tuy nhiên nếu co giật kéo dài liên tục có thể dẫn tới co thắt phế quản gây ngừng thở, ngừng tim. Thậm chí trẻ có thể chết trong cơn giật. Thời kỳ toàn phát triệu chứng của uốn ván rốn ở trẻ sơ sinh là cơn co giật và co cứng cơ Co cứng cơ toàn thân thường xảy ra sau cơn co giật đầu tiên. Do cơ toàn thân co cứng khiến trẻ có một tư thế đặc biệt cố định như mô tả ở trên. Co cứng cơ kéo dài suốt thời gian bị bệnh. Và giảm dần khi lui bệnh, hết hẳn sau khi khỏi bệnh một vài 2 biểu hiện chính kể trên, trẻ bị uốn ván rốn thường sốt 38-39 độ C trong vòng 1-2 tuần. Sốt cao khiến cho trẻ co giật nhiều hơn và dễ tử vong trong giai đoạn Thời kỳ lui bệnh Nếu được điều trị tốt hoặc ở thể nhẹ thì khoảng sau 7 ngày trẻ bớt giật, hết sốt. Tuy nhiên trẻ còn co cứng cơ kéo dài hàng tháng, sau đó sẽ khỏi bệnh. Đối với bệnh uốn ván rốn thể nhẹ và trẻ không có bệnh phối hợp thì bệnh thường khỏi hoàn toàn không có di chứng. Hậu quả xấu nhất xảy ra là trẻ tử vong trong những ngày đầu ở trường hợp uốn ván rốn thể tối cấp. Hoặc tử vong trong những tuần sau do bệnh phối hợp như nhiễm trùng huyết, viêm ruột hoại tử. Nếu qua được cơn nguy kịch, trẻ có thể mang di chứng về thần kinh tâm thần. Hay gặp ở những trẻ có cơn giật nhiều gây ngừng thở kéo dài thiếu oxy lệ tử vong do uốn ván sơ sinh rất cao. Theo ước tính của Tổ chức Y tế Thế giới WHO trong những năm cuối của thể kỷ 20, mỗi năm có khoảng trẻ bị chết vì uốn ván sơ sinh ở các nước đang phát triển. Tỷ lệ chết/mắc của uốn ván sơ sinh rất cao, có thể tới trên 80%, nhất là ở trường hợp có thời gian ủ bệnh ngắn. Ở Việt Nam, bệnh uốn ván xuất hiện tản phát ở khắp các tỉnh trong cả nước. Chương trình loại trừ uốn ván sơ sinh được triển khai từ năm 1992. Trong giai đoạn 1996 - 2000, tỉ lệ mắc uốn ván sơ sinh trung bình năm của cả nước là 0,13/ trẻ đẻ sống. Từ năm 2005, Việt Nam đã loại trừ bệnh uốn ván sơ sinh theo quy mô huyện với tỷ lệ mắc dưới 1/ trẻ đẻ sống. Tuy nhiên, uốn ván vẫn là một bệnh rất nguy hiểm nếu trẻ sơ sinh không được dự phòng bằng vắc-xin. 3. Làm gì khi phát hiện trẻ bị uốn ván rốn? Để dự phòng uốn ván rốn, trước và sau khi chăm sóc rốn cho trẻ cần phải rửa tay bằng nước sạch và xà bông kỹ. Có thể chăm sóc rốn cho trẻ ngay sau khi tắm, lau khô người cho trẻ, dùng bông đã được tiệt khuẩn thấm tẩm cồn 70 độ, hoặc gạc cồn 70 độ, lau kĩ chân rốn từ trong ra ngoài, từ gốc chân rốn đến vị trí cắt rốn, lau bề mặt cắt của rốn và da xung quanh chân rốn khoảng 1cm. Thường băng rốn khi rốn còn tươi để tránh chảy máu, sau khi rốn khô thường không cần băng rốn. Mặc quần áo sạch cho trẻ và tã thường phải được gấp dưới rốn. Không nên dùng gạc thường hoặc tã để băng rốn cho trẻ vì việc băng rốn nếu không được dùng bằng các sản phẩm đã được tiệt trùng thì sẽ tạo điều kiện làm ổ chứa vi khuẩn và ngăn cản sự lành rốn do rốn lâu khô, nhất là trong thời tiết nóng ẩm của nước ta. Tránh sờ vào cuống rốn, bôi các chất từ thảo dược không sạch lên cuống rốn. Những chất từ thảo dược thường bị nhiễm bẩn với nhiều bào tử nấm và vi khuẩn sẽ làm tăng nguy cơ nhiễm khuẩn trẻ bị đẻ rơi, dụng cụ cắt rốn không sạch, có thể dự phòng uốn ván rốn sơ sinh bằng tiêm huyết thanh chống uốn ván SAT cho trẻ Rốn trẻ sơ sinh Khi nghi ngờ trẻ bị uốn ván rốn phải đưa trẻ đi bệnh viện để được chẩn đoán và điều trị. Trẻ nên được điều trị tại những cơ sở có máy thở cho trẻ sơ sinh vì có thể trẻ sẽ ngừng thở khi co giật và đa số trẻ đều phải an thần và giãn cơ để tránh cơn co giật và co cứng. Ngoài ra cần chú ý để giảm bớt cơn co giật, trong khi di chuyển trẻ, nhân viên y tế cơ sở có thể tiêm thuốc an thần và kháng sinh cho trẻ. Cố gắng di chuyển nhẹ nhàng, tránh tiếng động và ánh sáng làm giảm các cơn co giật. 4. Tiêm uốn ván cho trẻ sơ sinh Để phòng uốn ván rốn hiệu quả, phụ nữ trong độ tuổi sinh sản, phụ nữ đang mang thai cần được tiêm vắc-xin phòng uốn ván hoặc vắc-xin phòng bạch hầu, ho gà, uốn ván. Ngoài ra, tại Việt Nam, vắc-xin phòng uốn ván còn được khuyến cáo tiêm ngừa cho tất cả trẻ nhỏ với 3 liều cơ bản lúc trẻ được 2, 3, 4 tháng và 1 liều nhắc lại lúc trẻ được 18 tháng. Sau đó có thể nhắc lại lúc 4-6 tuổi và 10-13 tuổi trở lên. Không chỉ có vậy, việc tiêm vắc-xin phòng uốn ván còn được khuyến cáo cho cả người lớn/người lớn phòng uốn ván cho phụ nữ chuẩn bị mang thai và mang thaiPhụ nữ chuẩn bị mang thaiVắc-xin uốn ván hấp phụ TT Việt Nam –Liều 1 Tiêm càng sớm càng tốtLiều 2 cách liều đầu tiên tối thiểu 1 thángLiều 3 cách liều 2 tối thiểu 6 thángADACEL Sanofi Pasteur của Pháp sản xuất tại Canada Tiêm 1 mũi. Vắc-xin Boostrix có thể nhắc lại sau mỗi 10 nữ đang mang thaiVắc-xin uốn ván hấp phụ TT Việt Nam Thai lần 1 tiêm 2 mũi, nên tiêm vào 3 tháng giữa và 3 tháng cuối thai kỳ, mũi tiêm cuối nên tiêm trước khi sinh ít nhất 1 tháng, nhắc lại 1 mũi vào lần có thai Boostrix Xem xét Tiêm 1 mũi vào thời điểm 27 đến dưới 35 tuần thai. Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng. Các loại vắc-xin cho trẻ đang có mặt ở Vinmec XEM THÊM Triệu chứng và phòng tránh nhiễm trùng uốn ván Lịch tiêm phòng uốn ván chi tiết cho bà bầu mang thai lần đầu, lần 2 trở lên Bệnh dại là gì? Cách xử trí sau khi bị chó dại cắn
Vi khuẩn uốn ván gây nên bệnh uốn ván, một căn bệnh nghe không quá xa lạ với mọi người. Tuy nhiên không phải ai cũng hiểu rõ về căn bệnh này, như vi khuẩn gây bệnh như thế nào, lây truyền ra sao và có triệu chứng gì. Vậy nên hãy cùng Doctor có sẵn tìm hiểu về vi khuẩn uốn ván và căn bệnh mang tên nó trong bài viết dưới đây nhé. Tóm tắt nội dung1 Tổng quan về vi khuẩn uốn Đặc điểm sinh học của vi khuẩn uốn Vi khuẩn uốn ván lây qua đường nào?2 Bệnh uốn ván có nguy hiểm không?3 Triệu chứng nhận biết nhiễm vi khuẩn uốn Thời kỳ ủ Thời kỳ khởi Thời kỳ toàn Thời kỳ lui bệnh4 Giá tiêm uốn ván là bao nhiêu tiền? Nên thực hiện ở đâu?5 Tiêm phòng uốn ván ở đâu là uy tín?6 Vắc xin uốn ván và những điều nên biết! Bệnh uốn ván tetanus là một bệnh truyền nhiễm cấp tính do ngoại độc tố tetanus exotoxin của vi khuẩn uốn ván Clostridium tetani sinh ra tại vết thương trong điều kiện yếm khí. Đặc điểm sinh học của vi khuẩn uốn ván Clostridium tetani là một loại vi khuẩn gram dương, có lông quanh thân, di động tương đối trong môi trường yếm khí. Vi khuẩn uốn ván có dạng hình que nên cũng thường được gọi là trực khuẩn uốn ván. Trực khuẩn thường tạo nha bào, nha bào hình cầu tròn ở dạng tự do hoặc ở một đầu của tế bào trực khuẩn nên có hình dùi trống. Mặc dù vi khuẩn uốn ván chết ở 56 độ C, nhưng nha bào uốn ván có sức sống rất mãnh liệt. Các dung dịch sát trùng như phenol, formalin chỉ có thể diệt nha bào sau 8-10 tiếng, nha bào chỉ chết hoàn toàn sau khi đun sôi ít nhất 30 phút hay trong lò hấp 120 độ C trong 15-20 phút. Vi khuẩn uốn ván có mặt khắp nơi trên thế giới. Vi khuẩn trưởng thành tồn tại dưới dạng nha bào, chủ yếu được tìm thấy trong đất, đất, bụi, phân, nước. Nha bào có khả năng gây bệnh uốn ván sau 5 năm tồn tại trong đất. Vi khuẩn gây bệnh uốn ván bằng cách tiết ra 2 loại độc tố Tetanospasmin và Tetanolysin. Vi khuẩn uốn ván lây qua đường nào? Bệnh uốn ván không lây giữa người với người. Chủ yếu, vi khuẩn uốn ván xâm nhập vào cơ thể người lành qua các vết thương nhiễm bẩn. Vết thương hở Nha bào uốn ván xâm nhập vào cơ thể qua các vết thương, vết rách, vết xước, vết bỏng, bị nhiễm đất bẩn, bụi đường, phân người hoặc phân súc vật; vết tiêm chích nhiễm bẩn; đinh đâm, gai đâm. Do thủ thuật y tế Một số trường hợp hi hữu bị uốn ván sau phẫu thuật, nạo thai do điều kiện không vệ sinh, không đảm bảo vô khuẩn hoặc dụng cụ bị nhiễm bẩn. Uốn ván sơ sinh trẻ sơ sinh dễ mắc uốn ván do nha bào uốn ván xâm nhập qua dây rốn trong khi sinh đẻ vì một hoặc nhiều lý do như cắt rốn bằng dụng cụ bẩn, không được chăm sóc rốn sạch sẽ, băng đầu rốn bị cắt không vô khuẩn nên bị nhiễm nha bào uốn ván. Bệnh uốn ván sơ sinh thường xảy ra ở trẻ bị đẻ rơi hay trẻ ở vùng sâu, vùng xa, không thể đến cơ sở y tế. Bệnh uốn ván có nguy hiểm không? Hai loại độc tố Tetanospasmin và Tetanolysin do vi khuẩn uốn ván sinh ra có tác dụng cực kỳ nguy hiểm đối với con người. Tetanospasmin một chất độc thần kinh cực kỳ mạnh, còn được gọi là độc tố gây co giật, hoặc TeNT, là một trong những độc tố nguy hiểm nhất trên thế giới. Chỉ với 1 mg độc tố Tetanospasmin đã có thể giết được 50 – 70 triệu con chuột. Tetanolysin là độc tố làm hủy hoại các mô. Khi xâm nhập vào cơ thể trong điều kiện vết thương yếm khí, hoặc có vùng hoại tử, hủy hoại tổ chức xung quanh. Bệnh uốn ván là một trong những nguyên nhân quan trọng gây tử vong ở nhiều nước đang phát triển, đặc biệt ở những vùng nông thôn và vùng nhiệt đới. Tại Việt Nam, tỷ lệ mắc uốn ván khoảng 1,87 ca/ dân, tỷ lệ tử vong bởi uốn ván dưới 5%; ở Bệnh viện Bệnh Nhiệt Đới – thành phố Hồ Chí Minh, mỗi năm có 200-400 ca mắc uốn ván, tỷ lệ tử vong 1-2%. Triệu chứng nhận biết nhiễm vi khuẩn uốn ván Thời kỳ ủ bệnh Thời gian ủ bệnh được tính từ khi có vết thương đến khi xuất hiện triệu chứng đầu tiên của bệnh uốn ván – cứng hàm, thường từ 3 đến 21 ngày. Thời gian ủ bệnh phụ thuộc vào đặc điểm, độ lớn và vị trí của vết thương, các vết thương bị nhiễm bẩn nặng thì thời gian ủ bệnh ngắn hơn và bệnh cũng nặng hơn. Thời gian ủ bệnh càng ngắn, bệnh tiên lượng càng xấu. Vết thường càng xa hệ thần kinh trung ương não và tuỷ sống thì thời gian ủ bệnh càng dài. Thời kỳ khởi phát Tính từ lúc cứng hàm đến khi có cơn co giật đầu tiên hoặc cơn co thắt hầu họng đầu tiên, thường từ 1-7 ngày, trung bình 48 giờ. Thời gian khởi phát càng ngắn, nhất là trong 48 giờ đầu, bệnh càng nặng, tỷ lệ tử vong càng cao. Triệu chứng điển hình như Cứng hàm là triệu chứng khởi đầu của thời kỳ khởi phát, độc tố của vi khuẩn uốn ván làm co cứng cơ nhai và các cơ ở mặt khiến cho bệnh nhân cứng hàm, có nét mặt “cười nhăn” nếp nhắn trán hằn rõ, hai chân mày châu lại, khoé miệng rộng. Dấu hiệu này gặp ở tất cả các ca bệnh, tiến triển tăng dần làm bệnh nhân mỏi hàm, nói khó, nuốt vướng, khó nhai, khó há miệng tăng dần và liên tục. Co cứng cơ xảy ra liên tục, trình tự, khởi đầu là cơ nhai, lan ra cơ mặt, lan xuống cơ cổ, cơ lưng bụng, cơ chi dưới và sau cùng là cơ chi trên. Tùy theo nhóm cơ co cứng chiếm ưu thế mà bệnh nhân có một trong những tư thế đặc biệt như sau Cong ưỡn người ra sau, thẳng cứng cả người như tấm ván, cong người sang một bên, gập người ra phía trước. Đau các cơn co cứng kèm theo cảm giác đau. Ngoài ra bệnh nhân còn có thể bị sốt cao, bồn chồn, vã mồ hôi. Thời kỳ toàn phát Tính từ lúc có cơn co giật toàn thân hay cơn co thắt hầu họng, thanh quản đầu tiên đến khi bắt đầu thời kỳ lui bệnh, thường kéo dài từ 10-14 ngày tuần với biểu hiện Co giật kiểu uốn ván Co lần lượt của 2 nhóm cơ vân gây giật mạnh toàn thân, tự nhiên hay khi kích thích, tự hết. Các cơn co giật toàn thân thường xảy ra do bị kích thích bởi va chạm, ánh sáng chói, tiếng ồn. Co thắt hầu họng, thanh quản Cũng là co giật, triệu chứng nguy hiểm, không có dấu hiệu báo trước, gây chết nhanh. Co thắt hầu họng gây khó thở, tím tái, suy hô hấp, ngưng thở. Co thắt hầu họng gây khó nuốt, nuốt vướng, ứ đọng đờm, sặc. Bí tiểu, bí đại tiện Do co thắt cơ vòng. Trong các cơn co giật, bệnh nhân vẫn tỉnh, nắm chặt tay do không rối loạn tri giác. Rối loạn thần kinh thực vật Tím tái, vã mồ hôi, tăng tiết đờm dãi, sốt cao 39–40 độ C, tăng hoặc hạ huyết áp, loạn nhịp tim có thể ngừng tim. Thời kỳ lui bệnh Bắt đầu khi các cơn co giật toàn thân hay co thắt hầu họng,thanh quản bắt đầu thưa dần, tình trạng co cứng toàn thân còn kéo dài nhưng mức độ giảm dần; miệng từ từ há rộng; phản xạ nuốt dần trở lại. Thời kỳ này kéo dài khoảng 3-4 tuần, thời gian để cơ thể tổng hợp các chất dẫn truyền thần kinh mới, thay cho những chất đã bị bất hoạt bởi độc tố của vi trùng uốn ván. Cảm ơn bạn đã tìm đọc bài viết “Các triệu chứng nhiễm vi khuẩn uốn ván bạn cần biết”. Phòng bệnh uốn ván là vô cùng cần thiết, nhất là khi bị thương và vết thương bị nhiễm bẩn. Khi đó hãy đến các cơ sở y tế gần nhất để được xử trí và điều trị kịp thời bạn nhé. Xem thêm Giá tiêm uốn ván Bài viết được tham khảo từ bác sĩ và các nguồn tư liệu đáng tin cậy trong và ngoài nước. Tuy nhiên, Doctor có sẵn Team khuyến khích bệnh nhân hãy tìm và đặt lịch khám với bác sĩ có chuyên môn để điều trị. Để được tư vấn trực tiếp, bạn đọc vui lòng liên hệ hotline 1900 638 082 hoặc CHAT để được hướng dẫn đặt hẹn. Nguồn tham khảo CDC Có thể bạn quan tâm Giá tiêm uốn ván là bao nhiêu tiền? Nên thực hiện ở đâu? Nắm rõ giá chích ngừa uốn ván bao nhiêu tiền sẽ giúp bạn có sự chuẩn bị tốt hơn về mặt tài… Tiêm phòng uốn ván ở đâu là uy tín? Nên tiêm phòng uốn ván ở đâu? Uốn ván là bệnh nhiễm trùng cấp tinh nguy hiểm hay gặp ở các… Vắc xin uốn ván và những điều nên biết! Vắc xin uốn ván là một phần của nhóm chủng ngừa được khuyến cáo cho cả trẻ em và người lớn…
Uốn ván 03/07/2012 2333 139,106 293,710 Bệnh uốn ván là một nhiễm khuẩn nguy hiểm, có tỷ lệ tử vong cao, đặc trưng bởi tăng trương lực cơ và các cơn co cứng, gây ra bởi một độc tố protein mạnh là tetanospasmin do Clostridium tetani tiết ra. Bệnh uốn ván là một nhiễm khuẩn nguy hiểm, có tỷ lệ tử vong cao, đặc trưng bởi tăng trương lực cơ và các cơn co cứng, gây ra bởi một độc tố protein mạnh là tetanospasmin do Clostridium tetani tiết ra. Bệnh uốn ván xuất hiện rải rác ở các vùng nông thôn; ở các nước không có Chương trình tiêm chủng mở rộng thì bệnh ở trẻ sơ sinh và người trẻ tuổi chiếm tỷ lệ cao. Bệnh uốn ván thường xảy ra sau một tổn thương cấp tính như vết chích da, vết rách da, vết trầy da, bỏng, viêm tai giữa, phẫu thuật, sảy thai, sinh đẻ... Uốn ván là một bệnh nhiễm trùng cấp tính có tỷ lệ tử vong cao do ngoại độc tố của trực khuẩn uốn ván Clostridium tetani gây ra. Khi mắc bệnh uốn ván tỷ lệ tử vong rất cao 25 – 90% . Đặc biệt là uốn ván rốn ở trẻ sơ sinh, tử vong trên 95%. Trực khuẩn này phát triển tại vết thương trong điều kiện yếm khí, sau đó giải phóng ngoại độc tố vào máu và tấn công vào các bản vận động thần kinh – cơ, làm cho bệnh nhân bị co cứng cơvà trên nền cứng đó xuất hiện các cơn co giật. Thời kỳ ủ bệnh khoảng 4 – 21 ngày. Tử vong do suy hô hấp, rối loạn thần kinh thực vật và ngừng tim. I. NGUYÊN NHÂN GÂY BỆNH UỐN VÁN Do bị trầy xát và viết thương tiếp xúc trực tiếp với trực khuẩn uốn ván Clostridium tetani có trong đất, cát bụi, phân trâu bò ngựa và gia cầm, cống rãnh, dụng cụ phẫu thuật không tiệt trùng kỹ …, xâm nhập vào các vết thương, vết xây xước phát triển thành ổ nhiễm trùng gây bệnh uốn ván. Những người có nguy cơmắc cao - Người làm vườn - Người làm việc ở các trang trại, các nông trường chăn nuôi gia súc và gia cầm - Người dọn vệ sinh cống rãnh, chuồng trại. - Công nhân xây dựng các công trình. - Bộ đội và thanh niên xung phong. Đặc điểm của vi khuẩn gây bệnh Vi khuẩn là trực khuẩn gram dương, di động, kỵ khí, có hình bầu dục, không có màu, nha bào có mặt ở khắp nơi trên thế giới trong đất, môi trường kỵ khí, phân súc vật, phân người. Nha bào có thể tồn tại nhiều năm trong một số môi trường và kháng với nhiều loại thuốc khử khuẩn, không bị tiêu diệt khi bị đun sôi 20 phút. Nhưng khi ở dạng các tế bào thực vật, chúng dễ dàng bị khử hoạt tính và nhạy cảm với nhiều kháng sinh như metronidazol, penicillin... Trực khuẩn uốn ván II. CÁC BIỂU HIỆN LÂM SÀNG Bệnh khởi phát sau chấn thương, trung bình là 7 ngày; 15% số trường hợp khởi phát bệnh trong vòng 3 ngày và 10% khởi phát bệnh sau 14 ngày. Uốn ván toàn thân là thể bệnh hay gặp nhất. Dấu hiệu điển hình là tăng trương lực cơ và co cứng toàn thân. Lúc đầu tăng trương lực cơ ở các cơ nhai, nuốt khó và cứng hay đau các cơ cổ, vai, lưng. Kế tiếp các cơ khác cũng bị tăng trương lực gây ra cứng bụng và cứng các cơ ở gốc chi; do co cứng liên tục các cơ mặt, tạo ra một vẻ mặt nhăn nhó hay kiểu cười khẩy, cười nhăn, co cứng cơ lưng tạo ra một tư thế lưng cong ưỡn lưng. Ở một số bệnh nhân xuất hiện các cơn co cứng toàn thân kịch phát, với cường độ mạnh, những cơn đau làm cho bệnh nhân xanh tím và đe dọa ngừng thở. Các cơn này có thể lặp đi lặp lại, có thể là tự phát hoặc do kích thích dù là rất nhẹ. Ở mức độ nhẹ, bệnh nhân chỉ bị tình trạng cứng cơ và có một vài cơn co cứng hoặc không có cơn co cứng nào. Thể vừa có dấu hiệu cứng hàm, khó nuốt, cứng cơ và các cơn co cứng. Trường hợp nặng, bệnh nhân bị nhiều cơn kịch phát, có thể bị sốt phần lớn không sốt. Các phản xạ gân sâu tăng. Nuốt khó hoặc chướng bụng làm cho bệnh nhân ăn uống khó khăn. Rối loạn hệ thần kinh thực vật như huyết áp tăng thất thường, hay thường xuyên; nhịp tim nhanh, loạn nhịp tim; sốt cao, vã mồ hôi. Một số biến chứng về tim mạch có thể gặp là hạ huyết áp và chậm nhịp tim, đôi khi xuất hiện ngừng tim đột ngột. Những biến chứng khác là viêm phổi, gãy xương, vỡ cơ, loét do nằm và ly giải cơ vân. Uốn ván ở trẻ sơ sinh, thường khởi phát trong 2 tuần đầu sau khi sinh với các dấu hiệu trẻ bỏ bú, cứng cơ và các cơn co cứng; thường là uốn ván toàn thân và dễ dẫn đến tử vong nếu không điều trị. Uốn ván cục bộ ít gặp, biểu hiện chỉ giới hạn ở các cơ gần vết thương, đây là thể nhẹ, tiên lượng tốt. Uốn ván đầu là một hình thái hiếm gặp của uốn ván cục bộ, diễn ra sau chấn thương đầu hay nhiễm khuẩn tai. Các triệu chứng gồm cứng hàm, rối loạn chức năng một hoặc nhiều dây thần kinh sọ, thường gặp là dây số 7, tỷ lệ tử vong cao. III. PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRỊ Nguyên tắc điều trị là diệt trừ vi khuẩn, trung hòa độc tố, ngăn ngừa các cơn co cứng cơ, theo dõi và xử trí hỗ trợ hô hấp. Bệnh nhân phải được chăm sóc trong một căn phòng yên tĩnh để giám sát và theo dõi tim, phổi thường xuyên, hạn chế mọi sự kích thích. Duy trì và bảo vệ đường thở. Xử lý vết thương sạch sẽ, loại bỏ triệt để các dị vật. - Dùng kháng sinh tiêu diệt tận gốc tế bào thực vật là nguồn sản sinh ra độc tố. Có thể dùng một trong các thuốc như sau penicillin 10 – 12 triệu đơn vị tiêm mỗi ngày x 10 ngày; metronidazol 500mg mỗi 6 giờ hay 1g mỗi 12 giờ; dùng clindamycin, erythromycin. Đồng thời phải điều trị đặc hiệu với nhiễm khuẩn do các vi khuẩn khác gây ra. - Dùng kháng độc tố uốn ván để vô hiệu hóa độc tố lưu hành trong máu và độc tố ở vết thương nhằm làm giảm tỷ lệ tử vong; kịp thời dùng globulin miễn dịch uốn ván của người. Tốt nhất là nên tiêm kháng độc tố trước khi điều trị vết thương. - Kiểm soát các cơn co cứng Dùng một hay phối hợp các thuốc sau đây diazepam được sử dụng phổ biến lorazepam, barbiturat, chlorpromazin. Thuốc phong bế thần kinh cơ kết hợp với thở máy để điều trị các cơn co cứng không đáp ứng với thuốc hoặc các cơn co cứng đe dọa ngừng thở. - Điều trị hỗ trợ Mở khí quản có thể kết hợp hoặc không kết hợp với thở máy; bù nước và điện giải; tăng cường dinh dưỡng bằng truyền dịch hoặc cho ăn qua ống thông vào dạ dày; vật lý trị liệu để đề phòng cứng cơ; dùng heparin và các chất kháng đông khác để đề phòng tắc mạch phổi; theo dõi chức năng của thận, bàng quang và ruột; phòng chống chảy máu và loét đường tiêu hóa. - Dùng vaccin gây miễn dịch chủ động Tất cả bệnh nhân phải được tiêm vaccin sau khi bệnh đã phục hồi.
Bài viết được tư vấn chuyên môn bởi Thạc sĩ, Bác sĩ Nguyễn Hải Hà - Trưởng Đơn nguyên vắc-xin – Khoa Ngoại trú Nhi, Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Times City. Uốn ván là một trong những bệnh nguy hiểm, thậm chí có thể dẫn đến tử vong nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời. Vậy xét nghiệm nào thường được dùng để chẩn đoán bệnh uốn ván? 1. Bệnh uốn ván là gì? Bệnh uốn ván tên khoa học là Tetanus là một bệnh truyền nhiễm cấp tính do ngoại độc tố Tetanus exotoxin của vi khuẩn uốn ván tên khoa học là Clostridium tetani phát triển tại vết thương trong điều kiện yếm khí. Các triệu chứng của bệnh được biểu hiện là những cơn co cứng cơ kèm theo đau, trước tiên là các cơ nhai, cơ mặt, cơ gáy và sau đó là cơ khuẩn uốn ván gây bệnh bằng cách xâm nhập vào cơ thể qua vết thương hở, phát triển và sản sinh ra ngoại độc tố. Ngoại độc tố ảnh hưởng đến toàn bộ cơ thể, làm tổn thương não và hệ thần kinh trung ương, dẫn đến co giật các cơ trên nền cơ căng cứng, có thể gây suy hô hấp-trụy tim mạch, rối loạn thần kinh, thậm chí dẫn đến tử vong nếu không được cấp cứu kịp thời. 2. Triệu chứng lâm sàng chẩn đoán bệnh là gì? Nhìn chung, khi vi khuẩn uốn ván xâm nhập vào cơ thể sẽ gây ra các cơn co thắt ở các cơ. Khi nhiễm trùng nặng hơn, các độc tố thần kinh có thể ảnh hưởng tới các bộ phận khác như ngực, cổ, lưng, bụng và mông. Ở mức độ trầm trọng nhất, cơ hô hấp có thể bị co dẫn đến ngạt và tử ván ở người lớn và trẻ em Co cứng cơ nhai và cơ mặt làm cho bệnh nhân có nét mặt cười nhăn. Co cứng cơ gáy, cơ lưng, cơ bụng, hoặc khu trú các cơ gần vùng có vết thương. Bệnh nhân sẽ có những tư thế đặc biệt như sau cong ưỡn người ra sau, cong người sang một bên, gập người ra phía trước... Các cơn co giật xảy ra khi bị kích thích bởi âm thanh, ánh sáng chói hoặc va chạm...Uốn ván ở trẻ sơ sinh Triệu chứng của uốn ván sơ sinh xuất hiện từ ngày 3 đến ngày 28 sau khi sinh. Trẻ không bú được do cứng hàm hoặc co cứng cơ toàn thân làm trẻ bị ưỡn cong người và rất dễ tử vong. Uốn ván khi nhiễm trùng nặng có thể làm dẫn tới tử vong Việc chẩn đoán bệnh uốn ván chủ yếu dựa vào quá trình diễn biến bệnh và khám các triệu chứng thực thể. Các xét nghiệm chủ yếu để phục vụ cho việc điều trị và theo dõi diễn biến của bệnh như xét nghiệm công thức máu toàn bộ, xét nghiệm protein C phản ứng CRP, Procalcitonin PCT hoặc lấy mẫu bệnh phẩm từ vết thương để cấy vi khuẩn và làm kháng sinh đồ...Không giống như những bệnh nhiễm khuẩn khác, biểu hiện của bệnh uốn ván thường đặc trưng, dễ nhận biết và việc chẩn đoán chủ yếu dựa vào lâm sàng, tiền sử bệnh với các yếu tố nguy cơ gợi ý như tổn thương với các vật kim loại rỉ sét như đinh, sắt..., vết thương sâu bị nhiễm đất bẩn, cát bụi, phân người hoặc súc vật, vết bỏng, vết thương dập nát hoặc do tiêm chích, cắt rốn với dụng cụ không vô khuẩn....Ở một số cơ sở y tế có điều kiện thì xét nghiệm chẩn đoán uốn ván chính là định lượng kháng thể kháng độc tố uốn ván trong huyết thanh, kết quả dương tính khi có trên đơn vị/dl thì nghĩ đến bệnh uốn xét nghiệm khác có vai trò hỗ trợ nhưCông thức máu ngoại vi với biểu hiện bạch cầu tăng cao khi có sự nhiễm hay PCT tăng cao gợi ý phản ứng viêm của cơ thể do vi khuẩn uốn ván xâm nhập hoặc bội nhiễm vi khuẩn khác. 4. Tiêm vắc-xin uốn ván giúp phòng bệnh hiệu quả Tiêm vắc-xin phòng bệnh là giải pháp phòng bệnh uốn ván hiệu quả nhất. Tiêm phòng vắc-xin là giải pháp phòng bệnh hiệu quả nhất hiện nay Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng. Các loại vắc-xin cho trẻ đang có mặt ở Vinmec XEM THÊM Triệu chứng và phòng tránh nhiễm trùng uốn ván Có thể chữa khỏi dứt điểm viêm gan B không? Viêm gan B có khả năng trở thành một bệnh nhiễm trùng mãn tính như thế nào?
bệnh án uốn ván